Lồi mắt là một trong những triệu chứng điển hình của bệnh basedow, thường đi kèm với cảm giác như có bụi bay vào mắt, nóng rát, chói mắt, chảy nước mắt sống. Nếu nặng, bệnh nhân có thể bị khô, loét giác mạc dẫn đến mù vĩnh viễn. Tùy theo mức độ lồi mắt, bác sĩ sẽ áp dụng các phương pháp chữa trị khác nhau.
Những bệnh nhân lồi mắt độ 1 thường không cần phải điều trị. Còn đối với những bệnh nhân lồi mắt độ 2, việc điều trị bao gồm:
– Đeo kính sẫm màu.
– Nhỏ hoặc tra các loại nước mắt nhân tạo để tránh biến chứng khô giác mạc.
– Nhỏ một loại thuốc nước đặc biệt để làm giảm mức độ cường cơ vận nhãn (theo chỉ định của bác sĩ nhãn khoa).
Riêng đối với trường hợp lồi mắt từ độ 3 trở lên, việc điều trị rất phức tạp và không phải lúc nào cũng có hiệu quả.
– Dùng thuốc Corticoides liều cao: Chẳng hạn dùng Prednisone mỗi ngày 100 mg (20 viên) trong 5-7 tuần. Tuy nhiên, khả năng dung nạp Corticoides của người Việt Nam thấp hơn so với bệnh nhân phương Tây. Tác dụng phụ hay gặp nhất là viêm loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa và phù do giữ nước.
– Xạ trị: Dùng máy tạo chất phóng xạ chiếu vào vùng hốc mắt. Phương pháp này chỉ có hiệu quả trong giai đoạn sớm và không có tác dụng khi sẹo đã hình thành phía sau hốc mắt.
– Phẫu thuật: Được sử dụng cho những trường hợp không đáp ứng với Corticoides và xạ trị, bao gồm:
+ Khâu cò mí mắt: Nhằm làm giảm độ hở của mí mắt.
+ Phẫu thuật chỉnh hình làm giảm độ co rút của cơ vận nhãn.
+ Phẫu thuật giải áp hốc mắt: Được thực hiện trong những trường hợp lồi mắt ác tính có tổn thương thần kinh thị giác, gây giảm và mất thị lực; hoặc khi bệnh nhân yêu cầu vì lý do thẩm mỹ.
+ Phẫu thuật tạo hình sau giải áp hốc mắt.
Tất cả các phẫu thuật này phải do bác sĩ nhãn khoa và tạo hình thực hiện. Khoảng 30% bệnh nhân sẽ hết lồi mắt sau khi phẫu thuật, thường là những bệnh nhân lồi mắt ở mức độ nhẹ và vừa.
TS Nguyễn Hoài Nam, Người Lao Động