Tuyến giáp là một tuyến nội tiết của cơ thể nằm ở vùng trước cổ. Tuyến giáp có vai trò quan trọng trong việc điều hoà năng lượng của cơ thể, ảnh hưởng đến các hoạt động của các cơ quan như tim mạch, thần kinh, nội tiết, trí óc, chuyển hoá thức ăn…Bướu giáp có ba dạng: bướu giáp lan tỏa, bướu giáp đa nhân và bướu giáp đơn nhân.
1. Bướu giáp lan tỏa
– Nguyên nhân thường gặp:
+ Viêm mạn (viêm giáp Hashimoto – chronic lymphocytic thyroiditis): thường gặp ở vùng có đầy đủ iode. TSH nên được đánh giá dù bệnh nhân có vẻ bình giáp trên lâm sàng, vì viêm giáp Hashimoto có thể gây suy giáp.
+ Bướu giáp lan tỏa dạng keo: thường gặp ở vùng thiếu iode
– Biểu hiện lâm sàng và điều trị:
+ Bướu giáp lan tỏa nhỏ thường không có triệu chứng nên chưa cần điều trị
+ Bướu giáp lớn hơn gây chèn ép, nuốt khó, khó thở, hoặc bướu to nặng nề ở cổ có thể điều trị bằng Levothyroxin liều ức chế TSH xuống ở trị số tối thiểu, giúp thu nhỏ bướu giáp và giảm các triệu chứng. Một số trường hợp cần phẩu thuật để giảm triệu chứng hoặc vì thẩm mỹ
+ Cần thăm khám lâm sàng và thử chức năng tuyến giáp hàng năm để phát hiện suy giáp, thường gặp ở viêm giáp Hashimoto
2. Bướu giáp đa nhân
– Nguyên nhân: Do tăng sản (hyperplasia) của các nang giáp (thyroid follicules) thường xảy ra ở người lớn tuổi và phụ nữ, không liên quan đến thiếu hụt iode.
– Lâm sàng và xử trí:
+ Hầu hết không có triệu chứng và không cần điều trị
+ Một số ít phát triển thành cường giáp (toxic multinodular goiter)
+ Một vài trường hợp gây chèn ép cần điều trị
+ Nguy cơ ung thư ở bướu giáp đa nhân tương tự như người có bướu giáp bình thường
+ Chọc hút tế bào với kim nhỏ (FNAC: Fine needle aspiration cytology):
- Khi hiện diện 2 hoặc nhiều nhân có kích thước trên 1cm, nên ưu tiên chọc hút nhân có dấu hiệu gợi ý ung thư trên siêu âm (Giảm âm so với mô giáp bình thường – vi vôi hóa trong nhân – bờ không đều – tăng sinh mạch máu trong nhân – không dấu halo – nhân có chiều cao lớn hơn chiều rộng trên thiết diện cắt ngang)
- Nếu không nhân nào có dấu hiệu gợi ý ung thư trên siêu âm, khả năng ung thư thấp, và nên chọn nhân có kích thước lớn nhất làm sinh thiết.
+ Điều trị tùy thuộc vào kết quả tế bào học của sinh thiết
- Bướu giáp đa nhân lành tính: chọn lựa phẩu thuật bán phần tuyến giáp khi bệnh nhân có triệu chứng chèn ép. Ở bệnh nhân từ chối phẩu thuật hoặc thể trạng kém, điều trị bằng iode phóng xạ liều cao có thể cải thiện kích thước và triệu chứng ở hầu hết các trường hợp. Điều trị với Thyroxin có tác dụng rất ít trên kích thước tuyến giáp, vì vậy không nên dùng.
- Bướu giáp đa nhân có kết quả ác tính: phẩu thuật
3. Bướu giáp đơn độc
– Bướu giáp đơn độc được phát hiện qua thăm khám lâm sàng 5% ở phụ nữ và 1% ở nam giới
– Thường là tăng sản lành tính (benign nodular hyperplasia) hoặc u tuyến tuyến giáp (thoroid adenoma)
– 5% bướu giáp đơn độc là ung thư giáp vì vậy cần phải thiết lập chẩn đoán để loại trừ
– Lâm sàng:
+ Những biểu hiện lâm sàng gợi ý ung thư giáp: Tuổi dưới 20 – có hạch cổ – nhân giáp chắc cứng, cố định – nhân lớn nhanh – khan tiếng – có tiền căn xạ vùng đầu cổ – tiền căn gia đình có ung thư giáp dạng tủy hoặc đa u tuyến nội tiết tiết típ 2A hoặc 2B. Tuy nhiên, hầu hết ung thư tuyến giáp không có các biểu hiện lâm sàng gợi ý như trên, vì vậy khi phát hiện lâm sàng có nhân đơn độc, cần tiến hành làm FNAC
+ Một số bướu giáp đơn độc đưa đến cường giáp, một số khác đột ngột căng đau do xuất huyết thường lành tính, không cần làm FNAC
– Cận lâm sàng
+ TSH giảm: BN có biểu hiện cường giáp, thường là bướu giáp lành tính. Tuy nhiên cần làm xạ hình tuyến giáp, nếu bướu giáp đơn độc tăng hoạt (hyperfunctioning) giúp khẳng định chẩn đoán trên. Nếu nhân đơn độc giảm hoạt (hypofunctioning) ở bệnh nhân cường giáp Basedow, cần làm FNAC
+ Calcitonin huyết thanh: chỉ định khi BN có tiền sử gia đình ung thư giáp dạng tủy hoặc đa u tuyến nội tiết típ 2A hoặc 2B
+ FNAC quan trọng trong việc chẩn đoán. Kết quả FNAC chia làm 4 loại:
- Kết quả tế bào lành tính cần được theo dõi định kỳ bằng khám lâm sàng, bởi vì khả năng âm tính giả thấp. Làm lại FNAC nên được xem xét khi thấy bướu lớn nhanh. Levothyroxin không có hoặc có hiệu quả rất thấp trên kích thước bướu, nên không được chỉ định
- Nếu mẫu thử không đạt, cần sinh thiết lại
- Kết quả tế bào ung thư giáp nên được phẩu thuật cắt tuyến giáp toàn phần và theo dõi điều trị tiếp với phác đồ ung thư giáp
- Kết quả tế bào không xác định thường có 20% là ung thư giáp, vì vầy, với kết quả này cần điều trị phẩu thuật. Thường cắt bỏ thùy có nhân giáp. Nhân giáp được làm giải phẩu bệnh, nếu kết quả là ung thư, BN cần được phẩu thuật tuyến giáp toàn phần.
BS. NGUYỄN TRẬN
Chuyên khoa Nội tiết – BV Hoàn Mỹ Sài Gòn