Basedow – căn bệnh nguy hiểm chưa rõ nguyên nhân

Basedow – căn bệnh nguy hiểm chưa rõ nguyên nhân

Basedow (bướu cổ lồi mắt, bướu độc tuyến giáp) là một bệnh nội tiết rất hay gặp ở Việt Nam và trên thế giới. Nếu không được điều trị hoặc điều trị không hiệu quả, bệnh nhân có thể tử vong. Cho đến nay, chưa có một phương thức dinh dưỡng nào giúp phòng ngừa được bệnh.

Ở Việt Nam chưa có thống kê chính thức về tỷ lệ người mắc Basedow trong cộng đồng dân cư. Tại Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) nó chiếm tới 46% các bệnh nội tiết và gần 3% các bệnh nội khoa.

Cho đến nay, nguyên nhân của bệnh vẫn chưa được làm rõ. Nhiều người cho rằng đây là một bệnh tự miễn (cơ thể người bệnh tự sinh ra các yếu tố chống lại chính mình và gây nên bệnh). Các yếu tố khiến bệnh khởi phát thường là stress, chấn thương thần kinh, nhiễm khuẩn, uống nhiều loại thuốc có chứa chất iốt như Cordarone (chống loạn nhịp tim) và nhất là yếu tố gia đình. Có nhà có tới 5 chị em cùng bị bệnh Basedow.

Nếu không được điều trị hoặc điều trị không hiệu quả, người mắc Basedow có thể bị suy kiệt và bị các biến chứng về tim mạch (suy tim, rối loạn nhịp tim). Ngoài ra, còn có thể xuất hiện tình trạng cơn bão giáp: sốt cao (có khi đến 40-41 độ C), rối loạn tâm thần, có thể kích động, mê sảng, tim đập rất nhanh (có khi lên đến trên 150 lần/phút). Bệnh nhân có thể tử vong.

Do có hiện tượng tăng tốc độ chuyển hóa chất đạm nên bệnh nhân cần ăn nhiều thịt, cá và các loại thực phẩm có protein. Tránh ăn chay hoặc ăn kiêng.

Các phương pháp điều trị Basedow

– Nội khoa: Phương pháp này tương đối tốn kém, đòi hỏi bệnh nhân phải uống thuốc một cách kiên nhẫn. Hầu hết các trường hợp đáp ứng thuốc; nhưng khi ngừng thuốc, bệnh rất hay tái phát (2/3 bệnh nhân tái phát trong vòng 2 năm sau khi ngừng điều trị).

– Dùng đồng vị phóng xạ “tàn sát” tuyến giáp: Áp dụng cho những trường hợp hay tái đi tái lại. Đây là “cuộc phẫu thuật không kiểm soát được” nên hiện ít được sử dụng.

– Phẫu thuật: Được chỉ định khi điều trị nội khoa thất bại. Sau đó, bệnh nhân vẫn phải dùng thuốc với liều lượng thấp. Trên thế giới đã áp dụng mổ nội soi. Phương pháp này cũng đem lại kết quả như mổ hở nhưng không để lại sẹo; tuy nhiên tốn rất nhiều thời gian và kinh phí (ở Singapore là khoảng 5.000 USD/ca).

– Dùng sóng siêu âm: Sau khi siêu âm tuyến giáp, các bác sĩ nhận thấy triệu chứng cường giáp giảm và biến mất dù chưa điều trị gì. Tuy nhiên, phương pháp này chưa được công nhận.

Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản và hiệu quả

Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nam, Tổng Thư ký Hội Phẫu thuật lồng ngực và tim mạch TP HCM, cho biết, trong điều trị Basedow, phẫu thuật là phương pháp chắc chắn, hiệu quả và ít để lại di chứng nhất. Người bệnh tránh được các biến chứng có thể có trong điều trị nội khoa, chi phí lại thấp hơn so với các phương pháp khác.

Tuy nhiên, phẫu thuật Basedow cũng có thể dẫn đến một số biến chứng (tuy ít xảy ra):

Chảy máu trong và sau khi mổ: Tỷ lệ 1-2%. Đây là biến chứng lành tính, hầu như không có tử vong, chỉ cần theo dõi kỹ trong và sau mổ.

Chuột rút do hạ canxi máu: Tỷ lệ 2,7-8,5%. Nguyên nhân là bác sĩ làm tổn thương tuyến cận giáp trạng trong lúc mổ. Triệu chứng: Sau mổ 2-3 ngày, bệnh nhân tê chân tay, mệt mỏi nhiều, thần kinh dễ bị kích thích, lo lắng… Nếu nặng, bệnh nhân bị đau bắp chân như chuột rút, bàn tay co quắp, các ngón rút lại. Chỉ cần một liều thuốc canxi (thường là Canxi Bronat tiêm tĩnh mạch) là các triệu chứng hết ngay.

– Khàn tiếng sau mổ: Tỷ lệ 0,5%. Nguyên nhân là dây thần kinh quặt ngược hay dây thần kinh thanh quản trên bị tổn thương, thường gặp trong trường hợp bướu giáp lớn, chảy máu nhiều khi phẫu thuật. Một nguyên nhân khác là viêm dính nhiều quanh bướu (đặc biệt là ở những bệnh nhân đã điều trị không đúng bằng cách đốt, chích trên bướu). Tình trạng khàn tiếng có thể là tạm thời nhưng cũng có thể là vĩnh viễn.

Cơn bão giáp trạng: Do công tác chuẩn bị phẫu thuật chưa tốt, bệnh nhân được mổ trong tình trạng chưa bình giáp hoàn toàn. Nếu không phát hiện và xử trí kịp thời, bệnh nhân có thể tử vong. Hiện nay, biến chứng này hầu như không xảy ra nữa.