Hiện nay trong thực hành chuyên ngành khớp chúng ta gặp nhiều khá nhiều bệnh khớp tự miễn dịch như lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ, xơ cứng bì… Có nhiều thuốc điều trị nhóm bệnh này trong đó thường dùng nhất là nhóm thuốc ức chế miễn dịch như corticoid, cyclophosphomid, methotrexat… Tuy nhiên chúng đều có tác dụng phụ đáng kể. Gần đây xuất hiện một thuốc mới, hứa hẹn khắc phục một phần nhược điểm của các thuốc trên, đó là mycophenolat mophetil.
Mycophenolat mophetil có tên hóa học là ester 2-morpholinoethylic acid mycophenolic. Đây thực ra là một thuốc đã dùng tương đối phổ biến trong điều trị chống thải ghép tạng. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu mới gần đây đã chứng tỏ vai trò của thuốc trong bệnh lý khớp tự miễn.
Cơ chế tác dụng: Mycophenolat mophetil có tác dụng ức chế men inosine monophosphate dehydrogenase – một enzym tham gia tổng hợp nhân purin, nên có tác dụng lên các tế bào lympho T, B qua đó ức chế sự hình thành các kháng thể và các tế bào lympho T gây độc. Thuốc cũng đồng thời làm giảm các phân tử kết dính, gây ức chế sự gắn kết của các tế bào lympho với các tế bào nội mô, làm hạn chế vai trò các tế bào này trong các bệnh tự miễn.
Dược động học: Có hai dạng dùng của mycophenolat mophetil là đường uống và đường tiêm. Dùng thuốc cùng thức ăn không làm giảm độ hấp thu thuốc nhưng làm giảm nồng độ tối đa của thuốc trong huyết tương từ 20- 40%. Sau khi vào máu, thuốc được chuyển hóa nhanh thông qua quá trình thủy phân hầu như hoàn toàn thành dạng hoạt tính là acid mycophenolic. Phần lớn mycophenolat mophetil (> 90%) được bài tiết qua nước tiểu, khoảng 5,5% đào thải qua phân.
Chỉ định
Trong chống thải ghép tạng: Đây là một chỉ định sớm nhất và phổ biến nhất của mycophenolat mophetil, dùng cho những bệnh nhân ghép gan, thận, tim… Thuốc được dùng phối hợp với cyclosporin và corticoid. Tuy nhiên trong phạm vi bài này chúng tôi chủ yếu đề cập tới chỉ định của thuốc trong một số bệnh lý khớp tự miễn dịch.
Lupus ban đỏ hệ thống: Đây là một bệnh ảnh hưởng tới rất nhiều cơ quan, đặc biệt khi thận bị tổn thương (viêm cầu thận do lupus) thì có tiên lượng xấu. Các nghiên cứu gần đây cho thấy mycophenolat mophetil có tác dụng tốt trong một số trường hợp bệnh viêm cầu thận lupus (với các typ III: viêm cầu thận tăng sinh ổ, IV: viêm cầu thận tăng sinh lan tỏa, V: viêm cầu thận màng theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới). Thuốc mycophenolat mophetil được dùng trong điều trị duy trì sau khi bệnh nhân đạt được sự lui bệnh do dùng các thuốc miễn dịch tấn công (phổ biến là cyclophosphomide). Khi đó mycophenolat mophetil được dùng phối hợp với corticoid nhằm làm giảm liều cũng như tác dụng phụ của corticoid. So với một số thuốc ức chế miễn dịch khác thường dùng phối hợp với corticoid như cyclosporin, azathioprin, methotrexate thì mycophenolat mophetil có ưu điểm là ít tác dụng phụ hơn. Một số nghiên cứu cho thấy mycophenolat mophetil còn được sử dụng cả trong điều trị tấn công đợt nặng của bệnh thận. Ngoài ra một số tổn thương khác ngoài thận như da, khớp cũng có thể điều trị tốt với mycophenolat mophetil.
Viêm khớp dạng thấp: Là một bệnh thường gặp, thường được điều trị bằng các thuốc khớp tác dụng chậm (dùng đơn độc hay phối hợp) như methotrexat, thuốc chống sốt rét tổng hợp chloroquin, sulphasalazin…Tuy nhiên trong một số trường hợp, bệnh viêm khớp dạng thấp không đáp ứng với các thuốc trên thì sử dụng mycophenolat mophetil cho hiệu quả tốt. Liều thường dùng là 1g hai lần trong ngày. Một nghiên cứu trên 153 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp dùng mycophenolat mophetil cho thấy liều 2 g/ngày cũng có hiệu quả bằng liều 4g/ngày trong khi tác dụng phụ trên dạ dày lại ít hơn. Hiệu quả rõ sau 4 tuần điều trị với đỉnh tác dụng vào tuần thứ 6-12.
Một số bệnh cơ xương khớp tự miễn khác như nhược cơ, viêm đa cơ, xơ cứng bì, vẩy nến… được điều trị bằng mycophenolat mophetil cũng cho kết quả khả quan, tuy nhiên số lượng nghiên cứu cũng như số lượng bệnh nhân chưa nhiều nên cần nghiên cứu thêm.
Ngoài ra mycophenolat mophetil còn được sử dụng trong điều trị trong một số bệnh khác như pemphygus vulgaris, các bệnh lý viêm mạch (viêm động mạch Takayasu, u hạt Wengener), bệnh Crohn, xơ gan đường mật tự miễn, nhiễm trùng HIV…
Chống chỉ định: Bệnh nhân dị ứng với mycophenolat mophetil hoặc acid mycophenolic.
Tác dụng phụ: Trên đường tiêu hóa như tiêu chảy, nôn mửa.
Nguy cơ mắc các bệnh lý nhiễm trùng do ức chế hệ thống miễn dịch quá mức. Theo dõi lượng bạch cầu trung tính, nếu giảm dưới 1.500 bạch cầu/ml phải ngừng thuốc.
Nguy cơ bị u lympho bào và các loại u ác tính khác, đặc biệt ở da khi dùng mycophenolat mophetil kéo dài.
Thận trọng khi dùng thuốc ở phụ nữ có thai, cho con bú vì có thể gây sảy thai trong 3 tháng đầu, gia tăng nguy cơ sinh con dị dạng… Phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ cần sử dụng thuốc ngừa thai khi dùng mycophenolat mophetil, tuy nhiên cần lưu ý là dùng thuốc mycophenolat mophetil kéo dài có thể làm giảm nồng độ thuốc ngừa thai trong máu, dẫn đến mất tác dụng của thuốc ngừa thai.