Chậm có thai có rất nhiều nguyên nhân, đôi khi là do tâm lý. Vì vậy, nếu vô sinh, chị em nên đi khám cụ thể để bác sĩ chỉ định điều trị cho đúng nguyên nhân.
>> Hóa chất sinh hoạt: kẻ thù bệnh vô sinh ở nữ!
>> Vô sinh ở nữ giới
Việc lạm dụng thuốc kích trứng đôi khi không mang lại hiệu quả mà còn gây tác hại khôn lường. Vậy những ai nên dùng thuốc kích trứng?
Trứng rụng không thường xuyên mới phải kích
BS Phó Đức Nhuận, BV Phụ sản TƯ cảnh báo, tình trạng lạm dụng thuốc kích trứng để mang thai khi chưa vô sinh là một sai lầm tai hại.
Định nghĩa vô sinh chỉ khi cặp vợ chồng chung sống với nhau liên tục trong một năm, không dùng biện pháp tránh thai nào và mong muốn có thai mà không có thai được. Với các chị em xây dựng gia đình khi đã lớn tuổi có thể đi khám sớm hơn (khoảng 6 tháng sau khi chung sống với chồng).
Các chị em cũng cần biết nguyên nhân gây vô sinh không phải chỉ do người phụ nữ mà có tới gần một nửa số trường hợp là do người chồng hoặc do cả hai vợ chồng. Vì thế khi đi khám về vấn đề này nhất thiết cần cả hai người cùng đi.
Với nguyên nhân từ phụ nữ, BS Nhuận phân tích: “Có rất nhiều và với mỗi loại nguyên nhân, thày thuốc sẽ dùng một số biện pháp điều trị thích hợp. Nếu nguyên nhân rụng trứng không thường xuyên hoặc các tế bào trứng không thể trưởng thành để có thể thụ thai thì khi đó thầy thuốc sẽ lựa chọn thuốc men phù hợp để điều trị vô sinh cho người phụ nữ đó”.
Nếu nguyên nhân vô sinh không do chức năng buồng trứng mà lại từ tử cung, từ ống dẫn trứng hay từ một nguyên nhân toàn thân khác thì phải dùng các phương pháp khác. Vì thế, nhiều chị em cứ đề nghị được dùng các thuốc kích thích rụng trứng cho trường hợp vô sinh của mình là điều không thích hợp, đôi khi tiền mất, tật mang.
Niềm vui có đứa con không phải là đơn giản với một số người. Nhưng nếu đầu tư không đúng cách, bạn sẽ tiêu diệt đi phần trăm hiếm hoi còn lại của mình. (Ảnh minh họa)
Đến bệnh viện để tránh các rủi ro
GS.TS Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc BV Phụ sản TƯ cho biết, thuốc kích thích rụng trứng là loại thuốc dùng để kích thích nang noãn phát triển. Thuốc có rất nhiều loại, phần nhiều được nhập từ nước ngoài vì đây không phải là thuốc nằm trong danh mục thuốc thiết yếu.
Chỉ có những người rụng trứng không thường xuyên hoặc các tế bào trứng không thể trưởng thành để có thể thụ thai… thì được chỉ định dùng thuốc kích trứng. Thuốc có tác dụng kích thích không chỉ 1 mà 2 – 3 hay nhiều hơn nữa các nang noãn phát triển. Khi đó, khả năng có thai ở người phụ nữ sẽ cao hơn. Tuy vậy, cùng với thuận lợi này, nguy cơ đa thai cũng rất lớn. Tình trạng đa thai tạo ra nhiều nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi.
Về phía con đó là các nguy cơ đẻ non, tật nguyền mà đáng sợ nhất là điếc, mù mắt, trí tuệ kém phát triển… Còn người mẹ có khả năng bị nhiễm độc thai nghén, rau tiền đạo, rau băng non, băng huyết…
Vì thế, ngay cả trong điều trị vô sinh bằng thụ tinh trong ống nghiệm, các chuyên gia cũng phải tìm nhiều cách để hạn chế tình trạng đa thai. Vì vậy, ở mỗi bệnh nhân bác sĩ cần cân nhắc kỹ liều lượng và loại thuốc sử dụng cho phù hợp. Và do đó, bạn cần phải đến các cơ sở uy tín, có kinh nghiệm, chứ không điều trị bừa bãi.
Theo TS Tiến, thuốc kích thích trứng là con dao hai lưỡi, vì vậy, mọi người không nên lạm dụng, đặc biệt là thuốc tiêm dễ gây biến chứng quá kích buồng trứng. Tốt nhất là có thai theo cách tư nhiên, thì khả năng có những đứa con hoàn thiện, khỏe mạnh, thông minh sẽ cao hơn.
Những bệnh nhân có bệnh lý gan nặng, suy gan hoặc tiền căn thuyên tắc mạch ở chi, ở phổi,… cần thông báo với bác sĩ điều trị trước khi tiến hành kích thích buồng trứng. Bởi lẽ, kích thích buồng trứng sẽ tạo nhiều nang noãn phát triển, làm tăng tiết nhiều estrogen. Estrogen trong máu tăng cao có thể làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông trong lòng mạch và tăng hủy hoại tế bào gan khiến bệnh lý gan nặng hơn. Trường hợp có khối u vú hoặc khối u buồng trứng chưa rõ bản chất lành hay ác tính, phụ nữ cần thông báo với bác sĩ điều trị trước khi tiến hành kích thích buồng trứng, vì các thuốc kích thích buồng trứng nếu sử dụng trong thời gian dài nhiều chu kỳ có thể làm tăng nguy cơ ác tính của khối u. |