Colchicin là thuốc điều trị gout cổ điển, là thuốc được chọn lựa để điều trị gout cấp. Thuốc hiệu quả nhất trong vòng 12-24 giờ đầu tiên của cơn gout cấp, nhưng sau đó tác dụng giảm dần theo tình trạng viêm kéo dài.
>> Những lưu ý khi sử dụng thuốc điều trị gout (Kỳ II)
Gout là nguyên nhân gây đau, là bệnh viêm khớp mạn hành hạ loài người hàng ngàn năm nay. Trong quá khứ, bệnh được gọi là “bệnh của các vị vua” do hay gặp ở các vua chúa từ thời của Hippocrates.
Tất cả các tế bào sống, kể cả những tế bào trong cơ thể chúng ta, đều có chứa chất DNA, được cấu tạo từ một nhóm nguyên liệu trong đó có các chất hóa học gọi là purines. Một số thịt động vật, hải sản, đậu khô, thức uống có cồn chứa lượng purines cao. Khi cơ thể chúng ta tiêu hoá chất purines, nó biến đổi lượng dư thừa không sử dụng thành acid uric.
Thận là cơ quan thường đào thải acid uric. Khi thận của chúng ta không thể điều hòa được lượng acid uric máu do bệnh lý ở thận hoặc do lượng acid uric tăng cao sau khi sử dụng một loại thực phẩm nào quá nhiều, acid uric sẽ tích lũy trong cơ thể. Theo thời gian, acid uric tập trung quanh các khớp và tạo thành những tinh thể hình kim trong khớp. Các tinh thể này kích thích gây viêm và đau, là triệu chứng của đợt bùng phát gout cấp. Các tinh thể acid uric còn có thể kết dính lại với nhau dưới da và tạo thành những u nhỏ gọi là tophi. Khi các tophi này hình thành ở thận và đường tiết niệu, chúng trở thành sỏi.
Colchicin là thuốc điều trị gout cổ điển, là thuốc được chọn lựa để điều trị gout cấp. Thuốc hiệu quả nhất trong vòng 12-24 giờ đầu tiên của cơn gout cấp, nhưng sau đó tác dụng giảm dần theo tình trạng viêm kéo dài. Ngoài ra, khi được dùng để điều trị cơn gout cấp, colchicine gây những phản ứng phụ trên đường tiêu hóa, đặc biệt là nôn và tiêu chảy, ở 80% bệnh nhân.
Bệnh nhân có thể phòng tránh một đợt gout cấp bằng cách uống một viên colchicine duy nhất khi xuất hiện triệu chứng đau đầu tiên.
Colchicine không được dùng khi độ lọc cầu thận (GFR) dưới 10 ml/phút, và nên giảm liều xuống ít nhất một nửa khi GFR thấp hơn 50 ml/phút.
Colchicine cũng nên tránh dùng ở bệnh nhân rối loạn chức năng gan, tắc mật và tiêu chảy nhiều.
Đáp ứng lâm sàng khi dùng colchicine không phải là đặc hiệu cho gout và còn có thể gặp ở bệnh nhân giả gout, bệnh lý khớp sarcoid, viêm khớp vảy nến và viêm gân vôi hóa.
Colchicine còn dùng tiêm tĩnh mạch. Tuy đường dùng này có thể ngăn chặn được một đợt gout cấp, nhưng chỉ nên sử dụng trong những tình huống thật cần thiết do độc tính của thuốc. Ở một số nước không cho phép dùng tiêm tĩnh mạch nữa vì tỷ lệ tử vong có thể lên đến 2%. Cần phải sử dụng colchicine tiêm tĩnh mạch rất thận trọng ở bệnh nhân suy gan, suy thận. Nếu thuốc thoát khỏi thành mạch, nó có thể gây hoại tử mô. Trong mạch máu, nó có thể gây viêm tắc tĩnh mạch. Mất bạch cầu hạt là biến chứng quan trọng nhất khi dùng colchicine tĩnh mạch. Cần đếm bạch cầu hạt trước khi tiêm truyền. Các biến chứng khác bao gồm đông máu nội mạc rải rác (DIC), suy thận, độc tế bào gan, co giật và sốc.
Điều trị phòng ngừa đợt gout cấp
Khi sử dụng dự phòng bằng colchicine có thể làm giảm đợt cấp xuống 85%. Liều dự phòng colchicine tiêu chuẩn là 0,6mg ngày 2 lần. Khi suy thận cần giảm liều hoặc dùng cách nhật.
Nếu so sánh với 80% bệnh nhân có nguy cơ tác dụng phụ trên đường tiêu hóa khi dùng colchicin cho đợt gout cấp, thì liều lượng colchicine dự phòng chỉ gây tác dụng phụ trên 4% bệnh nhân mà thôi.
Sử dụng colchicine kéo dài có thể dẫn đến yếu cơ kết hợp với tăng creatine kinase do thuốc gây bệnh lý thần kinh cơ, đặc biệt ở những bệnh nhân suy thận.
Nếu bệnh nhân không dùng được colchicine, có thể thay thế bằng NSAID để dự phòng, ví dụ indomethacin, 25mg ngày 2 lần.
Dự phòng bằng colchicine có thể bắt đầu ngay ở đợt cấp của gout.
Giảm lượng acid uric
Trong nhiều trường hợp, các bệnh nhân bị đợt gout cấp lần đầu cần phải được điều trị bằng các thuốc hạ uric acid, do nguy cơ tái phát những đợt cấp về sau và do nguy cơ hình thành những tophi phá hủy ở xương và bao hoạt dịch, ngay cả khi không có những đợt viêm cấp.
Trong tất cả các trường hợp, nguy cơ và lợi ích cần được cân nhắc dựa trên từng bệnh nhân. Ví dụ, ở một bệnh nhân cao tuổi có nhiều bệnh lý đi kèm và suy thận, nguy cơ khi dùng thuốc để hạ acid uric có thể cao hơn lợi ích mà nó đem lại.
Mục tiêu điều trị là giữ mức acid uric ở khoảng 5-6 mg/dL.
Nguy cơ xảy ra đợt gout cấp thứ 2 sau đợt đầu tiên là 62% sau 1 năm, 78% sau 2 năm, và 93% sau 10 năm.
Điều trị bằng colchicine đơn độc có thể phòng ngừa những đợt gout cấp nhưng không ngăn cản được việc tích lũy acid uric trong các khớp có thể dẫn đến việc phá hủy khớp sau này.
Mặc dù việc sử dụng các chất làm hạ acid uric là quan trọng, không nên bắt đầu dùng chúng ngay trong đợt gout cấp vì có thể làm cho đợt cấp nặng hơn và kéo dài lâu hơn. Chỉ nên dùng chúng vài tuần sau khi đợt cấp đã lui và dưới sự bảo vệ của colchicine để đề phòng tái phát một đợt cấp mới.
Nếu xảy ra một đợt gout cấp khi bắt đầu dùng một loại thuốc hạ acid uric, không nên ngưng thuốc này lại vì điều này sẽ khiến cho lượng uric acid càng tăng nhiều hơn và làm đợt gout nặng và kéo dài hơn.