Thuốc có sắt và phòng ngừa thiếu máu thiếu sắt

Thuốc có sắt và phòng ngừa thiếu máu thiếu sắt

Sắt có vai trò rất cần thiết đối với cơ thể con người. Nói rằng sắt tự do không có nghĩa là nó tự do di chuyển trong các chất lỏng trong cơ thể. Sắt liên kết chặt chẽ với mọi phân tử sinh học vì thế nó sẽ gắn với các màng tế bào, acid nucleic, protein…

Thuốc có chứa sắt

Trong cơ thể động vật, sắt liên kết trong các tổ hợp heme – là thành phần thiết yếu của cytochromes, là những protein tham gia vào các phản ứng ôxy hóa – khử và của các protein chuyên chở ôxy như hemoglobin và myoglobin. Sắt được bổ sung cho những người cần tăng cường chất này trong dạng fumarat sắt (II). Trong nhóm thuốc chống thiếu máu, sắt được bổ sung dưới nhiều dạng thuốc uống có kết hợp với acid folic (vitamin B9), vitamin B6, vitamin B12. Ngoài ra, các dạng thuốc uống cũng bổ sung sắt dạng muối aminoat, ascorbat, gluconat hay sulfat tùy theo chế phẩm. Riêng dạng thuốc tiêm có sắt ít sử dụng. Hiện nay còn dùng là sắt sucrose (dextran) và chỉ sử dụng ở các bệnh viện tuyến trên (hạng 1, 2).

Chế độ dinh dưỡng liên quan mật thiết đến một số tình trạng bệnh ở trẻ em, trong đó hay gặp nhất là bệnh thiếu máu thiếu sắt. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 30 – 80% trẻ em ở các nước đang phát triển bị thiếu máu thiếu sắt. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng thì tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em Việt Nam dưới 2 tuổi là khoảng 50%. Trẻ bị thiếu máu sẽ bị chậm phát triển tâm thần vận động, giảm khả năng miễn dịch và khi đến tuổi đi học trẻ sẽ bị giảm khả năng phát triển về ngôn ngữ, vận động, các hoạt động phối hợp và giảm chỉ số IQ từ 5 – 10 điểm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu máu thiếu sắt là do chế độ dinh dưỡng cung cấp không đủ chất sắt cần thiết cho cơ thể. 

Phòng ngừa thiếu máu thiếu sắt

Sự hấp thu sắt bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Một yếu tố quan trọng đó là dạng của sắt trong thức ăn. Heme là thành phần chính của huyết sắc tố để cấu tạo nên hồng cầu. Sắt ở dạng heme có nhiều trong thức ăn nguồn gốc động vật và dễ được hấp thu hơn là sắt không ở dạng heme (non-heme) có nguồn gốc thực vật. Thức ăn giàu sắt ở dạng heme bao gồm các loại hải sản như nghêu, sò huyết, hàu, tôm, cá… các loại phủ tạng động vật như gan heo, gan gà, gan bò. Nên cho trẻ ăn đầy đủ các loại thực phẩm nói trên và các loại thịt bò, thịt gà, trứng để trẻ được bổ sung sắt đầy đủ.

Một số loại thức ăn giàu sắt không ở dạng heme như bột ngũ cốc, đậu tươi nấu chín, hạt bí đỏ, mật đường, các loại rau xanh như rau muống, măng tây… Sự hấp thu của sắt không ở dạng heme có thể được làm tăng lên khi được ăn kèm những thức ăn chứa sắt ở dạng heme trong cùng một bữa ăn. Ngoài ra, những chất làm tăng hấp thu sắt cũng có thể giúp tăng hấp thu sắt không ở dạng heme. Cần chú ý tránh ăn chung với những thức ăn có tính ức chế sự hấp thu sắt. Nên ăn nhiều chất làm tăng hấp thu sắt như thịt cá, gia cầm, các loại trái cây: vitamin C, cam, dưa đỏ, dâu, nho, các loại rau: bông cải xanh, cà chua, khoai tây, tiêu xanh và tiêu đỏ… Chất làm giảm hấp thu sắt là rượu vang đỏ, cà phê, trà, các loại củ dền, củ cải, sản phẩm từ đậu nành. Việc chọn một chế độ dinh dưỡng gồm những thực phẩm giàu chất sắt có thể giúp bé phòng tránh được bệnh thiếu máu thiếu sắt. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là nếu như trẻ được nuôi dưỡng đầy đủ với những thức ăn giàu chất sắt mà vẫn thấy trẻ xanh xao, cần đưa trẻ đi khám để tầm soát các nguyên nhân như nhiễm giun móc, viêm loét dạ dày, rong kinh ở tuổi dậy thì hoặc thiếu máu bẩm sinh di truyền. Các bà mẹ cần quan tâm đến thành phần dinh dưỡng của bữa ăn cho trẻ. Cho trẻ ăn đa dạng, thay đổi món, bổ sung rau, củ quả đúng cách. Tránh làm cho trẻ chỉ ăn một vài món ưa thích làm mất cân bằng vi chất trong khẩu phần ăn, gây ra các bệnh ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Đối với các bà mẹ mang thai, việc bổ sung sắt cần được tư vấn của thầy thuốc và sử dụng thuốc chống thiếu máu có sắt theo đúng chỉ định.    

ThS. Lê Quốc Anh