Ngày nay, một số nhược điểm của Retinol được đánh giá lại, nên việc dùng retinol trị mụn được nới lỏng hơn, đặc biệt được xem như một liệu pháp cần thiết khi bị mụn nặng.
Vai trò của retinol trong điều trị mụn
Khi mụn nhẹ, nếu do Propionilbaterium (P) acnes chỉ cần dùng kháng sinh (doxycyclin, menocyclin, limmecyclin); nếu do hormone chỉ cần dùng hormone (progesteron, etthylestradiol). Khi nặng, cần dùng tới retinol ở dạng bôi retinoid (RTN) hay dạng uống isotretionin (IST). Tính ưu việt của retinol là cùng một lúc có 3 tác dụng: giảm tiết bã, giảm vi khuẩn acnes; chống viêm; diệt trừ quần thể Proteus Klebsiela, P acnes, chống viêm nang lông; giảm ketatin hóa, tiêu sừng, chống sừng hóa.
Quá trình tạo ra mụn là một vòng xoắn bệnh lý: nhiễm khuẩn tạo ra viêm, tăng tiết bã nhờn; viêm và tăng tiết bã tạo ra môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển mạnh (đến khoảng 114.888 P acnes/cm2 da) thúc đẩy trở lại sự viêm và tăng tiết bã. Retinol chống lại có hiệu quả vòng xoắn bệnh lý đó; làm khỏi mụn, giảm bớt các tổn thương do mụn.
Do có tính đặc hiệu cao, hiệu lực mạnh, retinol dành dùng cho thể mụn nặng. dùng retinoid bôi
Dạng thuốc bôi retinoid (RTN) có nhiều thế hệ biệt dược.
Hiệu quả: RTN làm giảm quá trình keratin hóa phần dưới nang lông, tuyến bã chống viêm nang lông. Khi nang lông tuyến bã giảm viêm thì lại giảm tiết bã. Khi giảm tiết bã, có tác dụng ngược trở lại là giảm viêm, giảm các điều kiện thuận lợi của sự phát triển quần thể mụn P acnes. Hiệu quả quan sát được là làm tan còi mụn.
Tác dụng phụ:
Gây kích ứng da: thế hệ 1 (retinin A, retinova) làm da ban đỏ, tróc vảy; thế hệ 3 (adapalen, tarazolen) có gây kích ứng song nhẹ hơn nhiều. Lúc mới dùng có thể làm mụn phát triển nhẹ, thậm chí có các biểu hiện tồi tệ hơn. Chỉ sau khi dùng 8 – 12 ngày, mụn mới cải thiện. Nhiều người không biết rõ điều này nên cảm thấy mụn nặng lên lo lắng, tự ngừng thuốc. Thực ra, chỉ cần làm ẩm da sẽ giải quyết được tính kích ứng và dùng tiếp RTN sẽ phát huy hiệu quả.
Làm khô da: theo đó, không được dùng chung với các mỹ phẩm làm khô da khác (các sulfua, resorcinol, benzoylperoxid, acid salicylic).
Tăng tính nhạy cảm da với ánh nắng: theo đó, khi dùng không được phơi da ra nắng.
Cách dùng: chỉ bôi RTN thành lớp mỏng trên vùng da bị mụn, không dây ra vùng da lành, không dây vào các vùng dễ bị nhạy cảm (mắt, niêm mạc mũi), nếu dây ra thì rửa ngay bằng nước sạch nhiều lần cho hết. Chỉ bôi lớp mỏng, đúng số lần quy định, bôi dày, tăng số lần bôi sẽ làm tăng tính kích ứng, có thể ngấm sâu vào da, gây tác hại khác. Khi mụn đã đỡ thì nên giảm số lần bôi. Trong khi dùng, không được dùng thêm thuốc chứa vitamin A (tránh thừa). Sau 12 tuần mụn sẽ được cải thiện. Có thể phối hợp kháng sinh nhưng chỉ giới hạn trong 12 tuần, sau đó cắt kháng sinh (để tránh phơi nhiễm), dùng RTN đơn thuần vẫn có hiệu lực.
Dùng isotretionin uống
Dạng thuốc uống gọi chung là isotretioin (IST) với nhiều biệt dược (accutan, roaccutan).
Hiệu quả: IST làm thay đổi mô học của tuyến bã (giảm 90% kích thước tuyến, giảm teo nang lông xơ hóa quanh nang lông, giảm tế bào biệt hóa và chưa biệt hóa…), giảm tiết bã nhờn; thay đổi thành phần lipid của tuyến bã. Từ đó, thay đổi môi trường gây nên tác dụng thứ phát giảm quần chủng P anes; khống chế sự phân giải lipid của tuyến bã ra acid tự do làm giảm viêm. Mặt khác, IST ức chế một số chất trung gian (lysosom, suferoxid), tăng nồng độ các chất ức chế miễn dịch (IgG, IgA, IgM)… nên làm tăng thêm tính chống viêm. IST làm giảm quá trình keratin hóa phần dưới nang lông, tuyến bã chống viêm nang lông. Khi nang lông tuyến bã giảm viêm lại giảm tiết bã. Khi giảm tiết bã, có tác dụng ngược trở lại giảm viêm, giảm các điều kiện thuận lợi của sự phát triển quần thể mụn P acnes như thuốc bôi RTN.
Tác dụng không mong muốn:
Gây quái thai: do dùng kéo dài, IST có thể tích lũy gây quái thai. Theo đó, chỉ dùng IST sau khi đã thử chắc chắn là không có thai. Trong suốt thời gian dùng, một tháng trước khi dùng một tháng sau khi ngừng dùng IST phải có các biện pháp tránh thai chắc chắn.
Gây hại xương: IST hủy chất khoáng xương, giảm độ dày xương, đóng sớm đầu xương, các tác dụng phụ này không thể hết sau khi ngừng dùng; với trẻ vị thành niên có khoảng 16% còn gây đau cơ và khớp. Tránh dùng cho trẻ ở tuổi trưởng thành.
Gây trầm cảm: từ 1980 đã phát hiện thấy mối liên hệ giữa IST với các triệu chứng trầm cảm, rối loạn tâm thần, ý định tự sát và tự sát. Từ 1982 – 2001, FDA thu thập được 431 trường hợp trong đó có 37 trường hợp tự sát. Tuy nhiên, ý định tự sát và tự sát này dường như là những quyết định tự phát, phi lý của người bệnh chứ không phải là diễn biến cuối cùng của trạng thái trầm cảm lâm sàng. Năm 2006, nghiên cứu ở chuột thấy IST có gây ra trầm cảm lâm sàng. Gần đây, một số quan sát trên người cho thấy IST có gây ra các biểu hiện trầm cảm lâm sàng. Theo tiến sĩ Doug Bremner, việc dùng IST có làm giảm chức năng hình ảnh não, giảm chức năng hoạt động của thùy trán; tuy nhiên khi đánh giá trầm cảm theo thang trầm cảm Hamilton, không thấy có sự thay đổi trạng thái trầm cảm đáng kể khi dùng thuốc. Tóm lại, cho đến nay tác dụng không mong muốn này vẫn chỉ ở dạng nghi ngờ. Tuy vậy, riêng Bồ Đào Nha vẫn buộc các nhà sản xuất ghi lên nhãn tác dụng không mong muốn này.
Gây các phản ứng trên da: hầu hết người bệnh dùng đúng liều đúng thời gian điều trị, vẫn có khoảng 30% bị các chứng ngoài da như viêm da mặt, khô mắt, khô màng niêm mạc miệng, họng, mũi; chảy máu cam; viêm kết mạc; ngứa. Cùng lúc có thể làm gia tăng áp suất trong sọ, gây nhức đầu và các vấn đề về thị giác thoáng qua như nhạy cảm với ánh sáng, gây rối loạn thị giác lúc hoàng hôn.
Gây độc cấp tính về gan: xuất hiện sau 2 – 8 tuần sau khi dùng. Sau đó cho dù có tiếp tục dùng thuốc, các hiện tượng bất thường về gan cũng có thể hết. Các enzym gan ALT, ASAT tăng nhưng chỉ có 1% số người dùng tăng trầm trọng.
Có thể gây chán ăn, buồn nôn, viêm đường ruột.
Cách dùng: chỉ khi cần phải chống tiết bã nhờn, chống sừng hóa, chống viêm mà dùng các thuốc khác kể cả RTN dạng bôi không đáp ứng mới dùng tới IST dạng uống. Có thể dùng một đợt 6 tháng hay có thể dến 12 tháng để có liều tích lũy 150mg/ kg cho một đợt dùng. Đa số thường dùng 6 tháng (cũng đạt yêu cầu mà ít tai biến), nếu cần có thể dùng tiếp đợt khác, cách đợt đầu 2 tháng. Cần tuân thủ những chỉ dẫn đề phòng tác dụng không mong muốn; theo dõi cẩn thận, nếu phát hiện có bất thường thì tạm ngừng thuốc, báo cáo với thầy thuốc xem xét, xử lý.
DS.CKII Bùi Văn Uy